Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Sau Bức Màn Đỏ: hậu trường chính trị Việt Nam sau 1975 (4)

Sau Bức Màn Đỏ: hậu trường chính trị Việt Nam sau 1975 (4) PDF Print E-mail
Tác Giả: Hoàng Dung   
Thứ Ba, 05 Tháng 5 Năm 2009 07:49

(Tiếp theo) 

Thâm cung bí sử sau Ðại Hội Ðảng... 
Cũng thời gian đó, một số cán bộ miền Nam bất mãn trước những biện pháp đàn áp nhân dân của chế độ nên đã cùng Nguyễn Hộ lập ra “Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ” (sở dĩ được gọi là câu lạc bộ vì cộng sản không cho lập đảng hay hội đoàn không thuộc nhà nước (10), đảng Dân Chủ được đảng Cộng Sản cử ông Hoàng Minh Chính đứng ra thành lập ngày 30-6-1944 để làm bù nhìn cho đảng Cộng Sản, dù đã an phận chịu sự kiểm soát của Mặt Trận Tổ Quốc cũng bị giải tán trong năm 1988, tổng thư ký của đảng này là Nghiêm Xuân Yêm tuyên bố là “đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử”).

 Nguyễn Hộ từng là đảng viên Cộng Sản từ 1937, từ năm 1964 đến 1975 phụ trách công tác địch vận. Sau 1975 đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong vùng Sài Gòn. Tuy mới đầu, những đảng viên cựu cán bộ này chỉ muốn cải thiện lại đường lối cai trị của Ðảng cũng như của phẩm chất cán bộ, nhưng vì không một chính quyền cộng sản nào muốn có một đảng hay hiệp hội nào dù non yếu tồn tại song song với mình, nhất là trước cái gương của công đoàn Ðoàn Kết bên Ba Lan, đã từng phát triển và rồi lấn át được đảng Cộng Sản, cho nên câu lạc bộ của Nguyễn Hộ mới đầu còn bị cảnh cáo, sau đó bị gán cho là phản động, nhận tiền đế quốc. Tờ nội san “Truyền Thống Kháng Chiến” sau ba số thì bị đóng cửa. Ðồng thời Ðảng cho thành lập một hội Cựu Chiến sĩ Việt Nam khác để cạnh tranh và làm phân hóa câu lạc bộ. Những cán bộ tên tuổi của câu lạc bộ bị mua chuộc, lôi kéo, trong đó, có Trần Văn Giàu, một trong những sáng lập viên của câu lạc bộ, sau khi bỏ sang hội Cựu Chiến Sĩ được cho sang Pháp rong chơi nhiều tháng. Trần Văn Trà thì được thông gia là Võ Chí Công dụ sang cho làm phó chủ tịch của hội, còn Trần Bạch Ðằng thì hy vọng sẽ được Nguyễn Văn Linh nâng đỡ.

Cũng như các hội đoàn khác của nhà nước, hội Cựu Chiến Sĩ này được đặt dưới quyền giám sát của Mặt Trận Tổ Quốc. Những người đứng đầu câu lạc bộ không chịu khuất phục như Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, Ðỗ Trung Hiếu cũng bị bắt giữ. Tạ Bá Tòng trước kia phụ trách trí vận dưới quyền Nguyễn Hộ, từng khuyến dụ được thú y sĩ Phạm Văn Huyến và con gái của ông ta là Phạm Thị Thanh Vân (vợ Ngô Bá Thành ) vào Mặt Trận GPMN... Thất vọng với chủ nghĩa Cộng Sản, Nguyễn Hộ đã viết “Tôi phải thú nhận là chúng tôi đã chọn nhầm lý tưởng chủ nghĩa Cộng Sản. Bởi vì, trong suốt 60 năm cách mạng cộng sản, nhân dân Việt Nam đã phải gánh chịu biết bao hy sinh để chẳng được cái gì: đất nước vẫn nghèo, nhân dân vẫn không đủ ăn đủ mặc, không có tự do, không có dân chủ”.

 Tương tự như thế, chính quyền Việt Nam cũng lập ra một giáo hội Phật Giáo Việt Nam thuộc nhà nước, cạnh tranh với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đồng thời cũng tìm cớ bắt giam hai vị cao tăng của giáo hội này là hai Thượng Tọa Huyền Quang và Quảng Ðộ. Ðể bịt miệng Thượng Tọa Quảng Ðộ, có tin Mai Chí Thọ đã có lần dụ dỗ thượng tọa cho về trụ trì chùa Quán Sứ ở Hà Nội nhưng thượng tọa từ chối. Ngoài ra, họ cũng bắt luôn hai nhà Phật học thông thái là Thượng Tọa Trí Siêu và Thượng Tọa Tuệ Sĩ ở chùa Già Lam, rồi lên án tử hình ngày 30-9-1988 về tội “âm mưu lật đổ chính phủ”. Trước sự phản đối của quốc tế, án tử hình sau đó được giảm xuống còn 20 năm tù. Nhiều đại diện tôn giáo khác như linh mục Nguyễn Văn Lý, ông Lê Quang Liêm (Hòa Hảo), Phạm Công Trí (Cao Ðài) cũng bị bắt giữ.

 Riêng Bác Sĩ Nguyễn đan Quế (11), từng bị bắt năm 1978 và bị tù 10 năm, sau khi bị bắt lại vì thành lập Cao Trào Nhân Bản và bị đưa ra tòa ngày 29-4-91, ông điềm tĩnh nói với chánh án là họ không có tư cách để xét xử ông. Khi công tố viên đọc bằng chứng là Tuyên Ngôn Cao Trào Dân Chủ, nhiều đoạn chỉ trích chính quyền của ông bị sửa đổi, Bác Sĩ Quế đã phải liên tiếp chỉnh lại “Anh phải đọc cho đúng những gì tôi viết”. Ông bị tòa nhanh chóng tuyên án 20 năm tù. Hòa Thượng Quảng Ðộ, bị đày ra ngoài Bắc từ 1982, mười năm sau, ông tự ý trở về Sài Gòn và sau đó liên tiếp bị sách nhiễu hoặc quản thúc tại gia. Mấy năm sau, Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu, người được quân Bắc Việt đem ra Bắc năm 1968 làm dụng cụ tuyên truyền viên tịch. Trước khi chết, Thượng Tọa Ðôn Hậu gửi thư thông báo khắp nơi là đã công nhận Thượng Tọa Huyền Quang lên thay làm tăng thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mà không công nhận hội Phật Giáo nhà nước. Chính quyền tịch thu bức thư, nói bức thư đó là giả, không cho Hòa Thượng Huyền Quang dự đám tang. Thượng Tọa Thích Trí Tựu, trụ trì ở chùa Linh Mụ, khi xác nhận thư đó là thật cũng bị chính quyền bắt và cùng các Hòa Thượng Hải Thanh, Hải Chánh ở tù tại Phủ Lý.

 Về thông tin báo chí, sau một thời gian “cởi trói” ngắn ngủi, trước những biến cố bất lợi xảy ra ở Liên Xô và Ðông Âu, đồng thời ở trong nước, có những dấu hiệu phản kháng và xúc phạm vào quyền uy tối thượng của đảng và các đảng viên cao cấp (chẳng hạn bài phóng sự “Cái Ðêm Hôm Ấy Ðêm Gì” của ký giả Phùng Gia Lộc, viết về những hành động tàn ác thiếu tình người của những cán bộ tỉnh Thanh Hóa khi đi thu thuế dân nghèo đăng trên báo Văn Nghệ, đã được quần chúng hưởng ứng đến nỗi bí thư tỉnh ủy tỉnh Thanh Hóa là Hà Trường Hoa bị mất chức năm 1988). Vì thế, các nhà lãnh đạo cộng sản, kể cả người hô hào cởi trói là Nguyễn Văn Linh, lại bắt đầu tìm cách trở lại chính sách “trói buộc”. Hơn nữa, một tháng sau khi Nguyễn Văn Linh đi gặp Ceaucescu (chủ tịch nước ở Lỗ Ma Ni) và Honecker (tổng bí thư Ðông Ðức) ở Ðông Âu khoảng cuối năm 1989 về, hai người này một người bị xử tử, một người bị bắt ngồi tù. Vì thế, đa số đảng viên cộng sản cao cấp, từ những ủy viên Bộ Chính Trị đến những ủy viên Trung Ương Ðảng, sợ bị mất quyền lực và có thể bị truy tố nên tìm cách quay về con đường chuyên chính cũ.

 Ngay cả Nguyễn Văn Linh, người được coi như khai sinh ra “đổi mới” ở Việt Nam, sợ sẽ chịu chung số phận như Ceaucescu nên lại quay về phục hồi những biện pháp đàn áp. Trong một buổi họp của Trung Ương Ðảng, những biện pháp đổi mới bị phê bình là hữu khuynh. Thủ tướng lúc đó là Võ Văn Kiệt vừa mới tạm thời thay Phạm Hùng được vài tháng thì bị Nguyễn Văn Linh cùng Trung Ương Ðảng Cộng Sản buộc phải nhường chức cho một nhân vật bảo thủ hơn là Ðỗ Mười. Theo bà Nguyễn Thị Thi, một đại biểu Quốc Hội của thành phố Hồ Chí Minh, khi Quốc Hội bầu lại thủ tướng, chủ tọa đoàn của Quốc Hội đã ép các đảng viên phải bầu cho Ðỗ Mười lên thay Phạm Hùng nhưng một phần ba đảng viên đã cãi lệnh mà bầu cho Võ Văn Kiệt. Bà Thi từng là giám đốc Công Ty Lương Thực thành phố HCM. Trong những năm 1979, 1980, thành phố bị thiếu lương thực vì nông dân không chịu bán gạo với giá thu mua rẻ mạt của nhà nước, chính bà Thi đã dám “xé rào”, cãi lệnh trung ương, xuống những tỉnh miền Tây mua gạo rồi về bán lại theo giá thị trường.

 Trong nội bộ Ðảng, Trần Trọng Tân, một người từng theo Lê Ðức Thọ phụ trách về tuyên huấn ở Căm Pu Chia được cử lên làm trưởng ban Văn Hóa Tư Tưởng của Ðảng để giám sát Trần Ðộ. Trong Ủy Ban Trung Ương Ðảng, Trần Ðộ là một trong những người hiếm hoi dám đưa ra những biện pháp cải cách. Cuối năm 1989, trong bản “Phác Thảo Cương Lĩnh Văn Hóa Việt Nam những năm 1990”, ông đưa ra những điểm rất tiến bộ như: “văn hóa phải dựa trên cơ sở quan niệm đúng đắn về bản chất và chức năng thực sự của nghệ thuật như một tiếng nói bồi đắp lương tri và đạo đức cho xã hội. Thực hiện đầy đủ chính sách tự do sáng tạo, tự do phê bình”. Thấy được những quan điểm này “chệch đường lối”, một số phần tử bảo thủ và cơ hội như Hà Xuân Trường báo cáo ngay lên cho Lê Ðức Thọ, Trần Ðộ sau đó bị phê bình, mất chức để cho Hà Xuân Trường lên thay. Cũng trong tháng 12 năm 1989, đại hội các nhà văn được tổ chức tại Hà Nội. Tuy là đại hội của các nhà văn, nhưng đại hội lại được tổ chức dưới sự chỉ đạo của Trần Trọng Tân, Nguyễn Ðức Tâm và Ðào Duy Tùng. Ngoài ra, lại còn có sự hiện diện của Ðỗ Mười, Lê Ðức Thọ (lúc đó là cố vấn Bộ Chính Trị) và Trung Tướng Công An Dương Thông(12). Dương Thông đến để tố cáo có một số nhà văn nhận tiền để làm tay sai cho nước ngoài nhưng đã không nói được là ai khi bị chất vấn. Tuy trong 330 nhà văn đảng viên, có 180 người (đa số là những nhà văn miền Nam, trừ những người như Trần Bạch Ðằng ), bỏ phiếu để bầu trực tiếp Nguyễn Quang Sáng làm chủ tịch Hội Nhà Văn, nhưng cũng có đến 150 người theo lệnh Ðảng mà muốn ban quản trị bầu một người mà Ðảng đã chọn lựa là Anh Ðức. Tỷ số này cho thấy ngay trong giới cầm bút, một giới tương đối đầu óc phóng khoáng, cũng có một số không ít những phần tử thủ cựu và sợ oai của Ðảng. Tuy Nguyễn Quang Sáng đắc cử, nhưng trong Ban Quản Trị Hội Nhà Văn, đa số vẫn là những người có trong danh sách Ðảng chỉ định. Ðó có lẽ cũng là một thắng lợi chót của Hội Nhà Văn. Những năm sau, chính quyền lại siết chặt quyền kiểm soát thông tin và văn nghệ. Những nhà văn như Dương Thu Hương, Bùi Minh Quốc... bị kiểm soát chặt chẽ hay bị bỏ tù. Dương Thu Hương là người đã viết về những nhũng lạm của chính quyền Cộng sản một cách trực tiếp và can đảm nhất. Cuốn tiểu thuyết “Những Thiên Ðường Mù” xuất bản năm 1988 đã mô tả một giai cấp mới, nhờ ưu quyền mà làm giàu qua tham nhũng hay biển thủ của công (13).
Song song với những biện pháp cải tổ hệ thống kinh tế, sau đại hội VI, Cộng Sản Việt Nam cũng phải bắt buộc thay đổi đường lối ngoại giao. Tháng 7 năm 1987, Hội Nghị Trung Ương Ðảng họp và ra nghị quyết số 2 về ngoại giao gồm những điểm chính:
 - Tránh đụng chạm với quân đội Trung Hoa ở vùng biên giới và ở ngoài biển Ðông.

 - Ðặt kế hoạch rút quân đội ra khỏi Căm Pu Chia. Việt Nam đã thực hiện việc rút quân từ năm 1986, và cuộc rút quân dự trù hoàn tất vào cuối năm 1989. Song song với việc Việt Nam rút quân, Căm Pu Chia cũng chuyển hướng, thay đổi tên nước, sửa đổi hiến pháp, tuyên bố là một nước trung lập và Phật giáo là quốc giáo. Ðồng thời, Việt Nam chấm dứt việc gọi quan hệ ngoại giao với Ai Lao và Căm Pu Chia là những “quan hệ đặc biệt”...

- Giảm bớt quân số để tiết kiệm ngân sách

- Bớt ngân sách quốc phòng.

Nghị quyết này dù đã được từng bước thực hiện nhưng được giữ kín cho tới ngày 28-1-90 thì báo Nhân Dân mới tiết lộ. Thi hành tinh thần của nghị quyết, Bộ Ngoại Giao dưới quyền điều khiển của Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quang Cơ, Phan Doãn Nam... đã hoàn thành một dự thảo về chính sách ngoại giao mới, được trình bày trong buổi họp Bộ Chính Trị trong tháng 5 năm 1988. Trong những bộ phận chính phủ, ngành ngoại giao là một ngành gồm những người có học, tiếp xúc nhiều với thế giới bên ngoài nên đầu óc cấp tiến hơn. Trước kia, chiều hướng ngoại giao của Cộng Sản Việt Nam là chỉ thân thiện với những nước Cộng Sản và thế giới theo quan niệm chật hẹp của họ cũng chỉ có hai phe, Cộng sản hay Tư bản theo mô hình “hai phe, bốn mâu thuẫn”. Cộng sản là bạn, tư bản là địch. Bộ Ngoại Giao, dưới sự hướng dẫn của Bộ Trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã đổi mới “tư duy đối ngoại” bằng chủ trương “đa phương hóa và đa dạng hóa” đường lối ngoại giao để “phá thế bao vây” trong tình trạng cô lập do sự chiếm đóng Căm Pu Chia. Khác với những ủy viên Bộ Chính Trị khác, trong tập san “Quan Hệ Ngoại Giao” năm 1990, Nguyễn Cơ Thạch thẳng thắn công nhận đóng góp quan trọng của chủ nghĩa tư bản trong hai thế kỷ qua, xác nhận sự cần thiết phải hội nhập vào thị trường kinh tế thế giới và nhất là, ông công nhận sự sụp đổ của những nước xã hội chủ nghĩa là do những nguyên nhân nội tại chứ không phải do những âm mưu phá hoại của đế quốc (14).
 Vì bản dự thảo mà Nguyễn Cơ Thạch trình bày trong cuộc thảo luận của Bộ Chính Trị tháng 5 năm 1988 có nhiều điểm mới lạ nên đã gặp nhiều chống đối. Cuối cùng, sau những thảo luận gay gắt, bản dự thảo được thông qua ngày 20-5-1988, trở thành nghị quyết 13 của Bộ Chính Trị về ngoại giao, trong đó đề ra những chính sách đối với những đối tượng khác nhau:

- Nhanh chóng giải quyết vấn đề Căm Pu Chia

- Phấn đấu sớm bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc

- Bình thường hóa và cải thiện quan hệ với các nước ASEAN.

- Khôi phục quan hệ với các nước Phương Tây

- Tranh thủ kéo Mỹ đi vào bình thường hóa quan hệ

- Củng cố, tăng cường quan hệ với đồng minh, bạn bè 

 Theo tinh thần nghị quyết mà Nguyễn Cơ Thạch đưa ra, Việt Nam sẽ giải quyết cho xong vấn đề Căm Pu Chia và hòa giải với Trung Hoa, nhưng đồng thời, phải có một quan hệ ngoại giao quân bình với các nước Asean, Hoa Kỳ và Tây Âu để không bị Trung Hoa chèn ép. Trong chiều hướng này, song song với việc “cởi trói” văn nghệ, đổi mới kinh tế, và để lấy lòng Hoa Kỳ và các nước Tây phương, năm 1988, chính quyền Việt Nam công bố trả tự do cho 2474 tù nhân chính trị, giảm án hai tu sĩ Tuệ Sĩ và Trí Siêu từ tử hình xuống 20 năm tù. Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận cũng được trả tự do sau 13 năm tù đày (Tổng Giám Mục Thuận sau đó qua La Mã và được thăng chức Hồng Y). Hai năm 1987 và 1988 cũng là năm mà Tổng Thống Reagan của Hoa Kỳ lần đầu tiên gửi một sứ giả đặc biệt là Tướng Versey sang Việt Nam hai lần để bàn thảo sơ bộ về những vấn đề giúp đỡ nhân đạo. Tuy nhiên, do nhiều nguyên do, sự thiết lập bang giao với Hoa Kỳ của Việt Nam đã bị chậm trễ thêm mấy năm. Dù nguyên nhân chính khiến Ngoại Trưởng Nguyễn Cơ Thạch bị loại là vì áp lực của Trung Hoa, nhưng những phần tử bảo thủ trong Bộ Chính Trị cũng qui lỗi cho Nguyễn Cơ Thạch là đã thất bại không thuyết phục được Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận dù cho Việt Nam đã rút hết quân đội ra khỏi Căm Pu Chia. 

CSVN còn tồn tại là nhờ Gorbachev  

Người ta thường nói người khai sinh ra đổi mới ở Việt Nam là Nguyễn Văn Linh. Thật ra, người đó là Gorbachev. Nhờ có Gorbachev, Việt Nam mới phải “đổi mới hay là chết”. Nhờ Gorbachev, Nguyễn Văn Linh mới được làm tổng bí thư. Ðổi mới chỉ là góp nhặt từ cởi mở và tái cấu trúc, còn đa phương và đa dạng hóa ngoại giao chỉ là hậu quả tất yếu của chính sách ngoại giao Thái Bình Dương mới của Liên Xô. Nhờ giải trừ bớt những biện pháp cứng nhắc của hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế của Việt Nam bắt đầu khá hơn. Tuy nhiên, sự sụp đổ của Liên Xô và Ðông Âu đã khiến Nguyễn Văn Linh cùng đa số đảng viên cầm quyền Việt Nam lo sợ, chùn bước. Hình như những nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam lúc nào cũng cần có một hậu thuẫn ngoại bang nào đó để học tập nếu không muốn nói là sùng bái.
Mất đi cái nôi của Cách Mạnh Tháng Mười, họ quay về Ðông Phương Hồng vì Trung Hoa vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa, đúng ra là độc đảng. Kể từ 1989, về đối ngoại, họ muốn được kết thân với Trung Hoa bằng mọi giá để làm một chỗ dựa thay Liên Xô, về đối nội, họ cóp nhặt mô hình cai trị của đảng Cộng Sản Trung Hoa, đàn áp dân chủ nhưng mở cửa kinh tế. Kết thúc khóa VI, đảng Cộng Sản Việt Nam họp đại hội đảng lần thứ VII và sẽ loại bỏ Nguyễn Cơ Thạch, bầu lên Ðỗ Mười và Võ Văn Kiệt để thực hiện những điều này.

 Chú thích:

1. Mai Chí Thọ: tên thật Phan Ðình Ðồng là em ruột của Lê Ðức Thọ (Phan Ðình Khải) và Ðinh Ðức Thiện (Phan Ðình Dinh). Vấn đề giữ gìn tên tuổi dòng họ tổ tiên của những cán bộ Cộng Sản Việt Nam hình như không được coi trọng, vì thế con của Lê Ðức Thọ vẫn có tên là Lê Nam Tiến (sau này là thứ trưởng Bộ Bưu Ðiện).

2. Tài liệu về Trần Xuân Bách và B68 do ông Dương Văn Thương, một cán bộ từng phục vụ ở Căm Pu Chia cùng với Trần Xuân Bách. Ông Thương sau này tỵ nạn ở Ðức.

3. Nguyễn Văn Linh thường nói muốn diệt tham nhũng “phải bắt hai vợ chồng nhà đó trước” (Võ Văn Kiệt và vợ là Phan Lương Cẩm). Một trong những vụ tham nhũng mà Võ Văn Kiệt bị tố cáo là đã thông đồng với bộ Trưởng Năng Lượng Vũ Ngọc Hải trong công tác xây dựng đường cao tốc Bắc Nam. Vũ Ngọc Hải bị kết án 3 năm tù và khi ở tù, mỗi Tết Võ Văn Kiệt đều vào thăm.

4. Vụ khai gian lý lịch của Lê Ðức Anh: thư của Phạm Văn Xô gửi Trung Ương Ðảng. Lê Ðức Anh khai gian để tăng tuổi đảng và tự đặt mình vào giai cấp “công nhân”, tiên tiến hơn là làm cai phu. Ngoài ra, Lê Ðức Anh cũng bị tố là lấy cớ vợ của mình là con địa chủ nên bỏ đi lấy con gái của chính ủy quân khu V để tiến thân.

5. Trong một bài “Những việc cần làm ngay”, Nguyễn Văn Linh có lần công kích những tòa đại sứ Việt Nam đã không chịu mua xe Liên Xô mà lại mua nhiều xe Toyota, Honda của Nhật khiến Nguyễn Cơ Thạch phải giải thích là ở các nước khác, việc bảo trì xe Liên Xô rất tốn kém và nhiều khi, không có cơ phận thay thế. Nguyễn Văn Linh ký tắt là NVL, (Nói và Làm) bắt chước Hồ Chí Minh ngày xưa ký XYZ.

6. Ông Nguyễn Minh Cần, cựu phó chủ tịch UƯy Ban Nhân Dân Hà Nội có kể lại là trong đợt Cải Cách Ruộng Ðất sau 1954, Ðặng Thí là phó bí thư khu ủy khu IV. Khu IV quá nghèo nên không đạt chỉ tiêu số địa chủ để đấu tố của các cố vấn Trung Hoa nên cán bộ tìm mãi mới đôn lên 2 người trong đám trung nông lên đưa cho Ðặng Thí. Ðặng Thí đang đi xe đạp ngoài đường không cần hỏi han ký ngay giấy kết tội chết cho cả hai người trên ghi đông xe đạp.

7. Ngoài việc viết khảo luận chính trị, Hà Sĩ Phu cũng làm thơ:

Nhân danh

An ninh khu vực

Yêu cầu các tâm hồn

Hãy mở cửa ra

Cho kiểm tra

Hành chính

Còn tim đen người kiểm tra thì được quyền đóng kín

Tối như bưng chẳng khai báo bao giờ
 8. Bùi Minh Quốc là một thi sĩ, từng là tổng biên tập tạp chí Lang Biang, sau đó bị khai trừ ra khỏi Ðảng và mất chức tổng biên tập. Sau khi mất chức, ông đã đi xe gắn máy khắp nước Việt Nam, nhất là đi kiểm tra việc Việt Nam nhường đất vùng biên giới. Trên đường đi, ông làm những câu thơ:

Một xe “81” với yên cương

Một áo blouson đẫm bụi đường

Rong ruổi với trời thu Việt Bắc

Bồi hồi mỗi dặm mỗi yêu thương 

9. Nhà văn Vũ Huy Cương, bạn của Vũ Thư Hiên, đã bị tù vì án “xét lại”. Xem Ðêm Giữa Ban Ngày. Năm 1996, bị bắt lại vì tội “photocopy” bức thư của Võ Văn Kiệt.

10. Ngay cả hai mươi năm sau, năm 2004, trước khi Diễn Ðàn Nhân Dân Á Âu (Asia Europe People's Forum) họp tại Hà Nội, theo thông lệ, các phái đoàn của các đoàn thể phi chính quyền (NGO) đến họp trước. Họ ngạc nhiên không thấy có một đoàn thể phi chính quyền nào ở Việt Nam. Những hội đoàn vô tội như hội Hướng Ðạo (mà các cựu đoàn viên đều là đảng viên cao cấp như Hoàng Ðạo Thúy, Tạ Quang Bửu), không được tái thành lập. Do tình trạng giáo dục tồi tệ ở Việt Nam, hội khuyến học được dự định thành lập nhưng chi nhánh ở thành phố HCM do ngay cả cựu Ðại Tướng Công An Mai Chí Thọ đứng đầu xin phép mấy năm nay vẫn chưa được cấp giấy phép.
 11. Nguyễn Ðan Quế: là một bác sĩ từng du học ở Bỉ về những bệnh nội tiết rồi về làm việc ở bệnh viện Chợ Rẫy. Sau 1975, ông thành lập Cao Trào Nhân Bản, bị ở tù nhiều năm và khi được thả, luôn luôn bị làm khó dễ đủ chuyện nhưng ông vẫn bền gan tranh đấu. Nhà cầm quyền khuyến khích ông lưu vong ra nước ngoài nhưng ông từ chối.
 12. Dương Thông, trung tướng công an, là em của người vợ thứ nhất của Lê Duẩn.
 13. Dương Thu Hương, tác giả những cuốn như Bên Kia Bờ Ảo Vọng, Những Thiên Ðường Mù..., đã từng theo bộ đội vào Nam chiến đấu trước năm 1975. Bà là người bị cả một hệ thống Thông Tin Văn Hóa kết hợp với công an bỏ tù, làm khó dễ, bôi đen, lăng mạ, kể cả người phê bình văn học của nhà nước là Phan Cự Ðệ. Tuy nhiên, bà vẫn có thái độ kiên cường, bất khuất. Sau này, bà sang định cư ở Pháp
14. Trích “Vietnam after 7th Party Congress” của Tadashi Mio, thuộc phân khoa Quan Hệ Quốc Tế Ðại Học Daito Bumka, Nhật Bản.
15. Ðể giúp đỡ và giám sát Việt Nam trong công cuộc đổi mới, Gorbachev cử một đại sứ mới là Kachin sang Việt Nam ngày 10-9-86 (Chính Ðạo, Việt Nam năm thứ 12)

16. Nhà thơ Vương Ðức Lệ, kể lại chuyện đi tù lần thứ hai của ông với người viết: “Thì ông Hoạt đưa cho mấy tài liệu thì tôi đọc chứ tôi có biết viết gì về chính trị đâu, chắc vì vậy mà chúng nó xưng xưng nói là tôi không phải tù chính trị. Thế thì tội của tôi là tội gì?”. Ông cũng nói nhà thơ Mai Trung Tĩnh, hoàn toàn không biết gì về việc của ông Ðoàn Viết Hoạt hay tài liệu mà ông Vương Ðức Lệ đọc, bị bắt ở tù thêm mấy năm vì một tội khác, đó là tội “là bạn thân của ông”.
 17. Hầu hết tài liệu về việc tái lập bang giao Việt Hoa đều từ cựu Thứ Trưởng Ngoại Giao Trần Quang Cơ
 18. Thái độ coi thường Việt Nam của Trung Hoa không phải ít xảy ra. Trong Ðêm Giữa Ban Ngày, nhà văn Vũ Thư Hiên kể lại là khi Trần Huy Liệu sang thăm Trung Hoa và được gặp Mao Trạch Ðông, báo Trung Hoa đã đăng hình Trần Huy Liệu lên với ghi chú “Chủ Tịch Mao Trạch Ðông cho Trần Huy Liệu được bắt tay”. Ngoài ra trong thời kỳ tranh chấp Nga Hoa, khi Hồ Chí Minh trên đường đi Liên Xô ghé qua Bắc Kinh, Mao Trạch Ðông cũng để Hồ Chí Minh chờ vài tiếng đồng hồ rồi mới tiếp.
 19. Nhà thơ Việt Phương từng là vụ trưởng vụ tổng hợp phủ thủ tướng, rất thân cận với Phạm Văn Ðồng. Khoảng đầu thập niên 1970, ông được theo Lê Thanh Nghị sang Âu Châu, về nhà làm tập thơ Mở Cửa, trong đó có những câu:
 
Ta nhất quyết đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ của Mỹ
Hình như đây là ý chí, niềm tin và tự hào
Mường tượng rằng trăng Trung Quốc đẹp hơn trăng nước Mỹ
Sự ngây thơ đẹp tuyệt vời nhưng ngờ nghệch làm sao
Năm xưa ta vô tình tô thắm cuộc đời để mà tin
Nay đã tin mà không cần tô thắm gì nữa cả
Quen thuộc rồi mối bất ngờ kỳ lạ
Ta đã trả giá rất đau và đã học nhìn
Thật ra không phải chỉ riêng Phạm Văn Ðồng mới ngậm miệng thủ thân, Võ Nguyên Giáp cũng ngậm miệng khi đang làm Bộ Trưởng Quốc Phòng, những thuộc cấp (như các cục trưởng tác chiến, quân báo...) bị bắt oan. Ngay cả Hồ Chí Minh, khi bí thư cũ của ông là Vũ Ðình Huỳnh bị bắt bỏ tù oan ức trong vụ án xét lại, Hồ Chí Minh vẫn làm lơ, không dám can thiệp.
(Còn tiếp)